Báo cáo biện pháp - Một số biện pháp rèn kĩ năng giao tiếp cho học sinh Lớp 1 - Trường Tiểu học Tiên Điền

docx 12 trang Minh Anh 16/12/2025 50
Bạn đang xem tài liệu "Báo cáo biện pháp - Một số biện pháp rèn kĩ năng giao tiếp cho học sinh Lớp 1 - Trường Tiểu học Tiên Điền", để tải tài liệu gốc về máy hãy click vào nút Download ở trên.

File đính kèm:

  • docxbao_cao_bien_phap_mot_so_bien_phap_ren_ki_nang_giao_tiep_cho.docx

Nội dung tài liệu: Báo cáo biện pháp - Một số biện pháp rèn kĩ năng giao tiếp cho học sinh Lớp 1 - Trường Tiểu học Tiên Điền

  1. I. LÍ DO. Đối với quá trình học tập của HS lớp 1, kiến thức về vốn từ, về ngôn ngữ nói là một trong 4 kĩ năng quan trọng để hình thành cho HS. Việc nói đúng câu, đủ ý, dùng từ chính xác sẽ giúp các em truyền tải thông tin đến với người nghe một cách mạch lạc và đầy đủ. Trong mối quan hệ biện chứng giữa các kĩ năng nghe - nói - đọc - viết thì không thể thiếu được vai trò của kĩ năng nói. Việc giáo dục lời nói trong giao tiếp từ xưa ông cha ta đã có câu: “ Học ăn, học nói, học gói, học mở” Để đánh giá con người, chúng ta cũng phải có sự thử thách qua giao tiếp hàng ngày khi tiếp xúc: “ Chim khôn thử tiếng, người ngoan thử lời” Lời nói vừa là đối tượng học tập của HS, vừa tạo cho các em công cụ để học các môn học khác, là công cụ để tư duy giao tiếp. Do vậy, cần phải giáo dục, rèn luyện lời nói của các em ngay từ nhỏ, từ các lớp đầu cấp tiểu học để sau này các em có thói quen cư xử đúng mực, lịch sự trong khi giao tiếp, khi học lên các lớp trên. Đó cũng là một vấn đề quan trọng ảnh hưởng đến chất lượng học tập của các em, nhất là trong thời kì đổi mới lấy HS làm trung tâm. Bản thân tôi là một giáo viên đã nhiều năm giảng dạy lớp 1, hàng ngày lên lớp tôi nhận thấy học sinh diễn đạt còn yếu, các em nói không đủ câu, chưa đủ ý. Nhiều học sinh rụt rè, nói không rõ, thậm chí không nói được. Vậy để các em nói được lưu loát, đầy đủ ý, diễn đạt mạch lạc đễ hiểu thì tôi quyết định đưa ra “Một số biện pháp rèn kĩ năng giao tiếp cho học sinh lớp 1’’ 2. Tính mới Với các biện pháp giáo dục linh hoạt, GV giúp HS mạnh dạn hơn trong giao tiếp. Các em biết mạnh dạn trình bày ý kiến và mong muốn của mình trước tập thể, gần gũi trao đổi với cô giáo, bạn bè, bố mẹ mạnh dạn đưa ra các ý kiến thắc mắc trong học tập cũng như trong việc thực hiện các hoạt động chung của lớp. Các em đã biết chia sẻ cảm xúc của mình với bạn bè, thầy cô, bố mẹ trong khi trò chuyện cũng như tham gia các hoạt động tập thể. II. BIỆN PHÁP GIÁO DỤC. 1. Biện pháp 1: Phân loại khả năng giao tiếp của học sinh Như K Đ Usinkin đã nói:“Muốn giáo dục con người thì phải hiểu con người về mọi mặt’’. Do đó, muốn dạy tốt, có chất lượng thì công việc đầu tiên là tìm hiểu HS lớp mình phụ trách. Đầu năm học, tôi tiến hành điều tra,phân loại học sinh theo các cách sau: Nhóm học sinh có lời nói lưu loát, đọc trôi chảy mạch lạc, biết thể hiện lời nói biểu cảm trong giao tiếp. Nhóm học sinh có lời nói tương đối lưu loát, trôi chảy. Tuy nhiên, chưa thể hiện được lời nói biểu cảm trong giao tiếp một cách rõ nét. Nhóm học sinh còn nhút nhát, nói năng cộc lốc, ngại giao tiếp, hầu như không biết sử dụng lời nói biểu cảm trong giao tiếp.
  2. Sau khi phân tích đặc điểm cũng như giao tiếp của từng học sinh trong lớp, tôi tiến hành xếp chỗ ngồi cho học sinh sao cho phân bố đều khắp 3 đối tượng học sinh nêu trên trong các nhóm. Ưu điểm của biệp pháp này: Các em tương trợ lẫn nhau trong quá trình học tập là một việc làm hết sức bổ ích như câu tục ngữ “Học thầy không tày học bạn” Trong quá trình học tập đua thầy, đua bạn sẽ giúp các em mạnh dạn, năng động hơn rất nhiều trong quá trình rèn luyện kỹ năng nói. Sự giúp đỡ động viên của các bạn trong lớp, trong nhóm sẽ giúp các em tự tin hơn trước lời phát biểu của mình. 2. Biện pháp 2: Xây dựng môi trường học tập thân thiện Sự thân thiện của giáo viên là điều kiện cần để những biện pháp đạt hiệu quả cao. Thông qua cử chỉ, lời nói, ánh mắt, nụ cười giáo viên tạo sự gần gũi, cảm giác an toàn nơi học sinh để các em bày tỏ những khó khăn trong giao tiếp, trong học tập, trong cuộc sống của bản thân mình. Là giáo viên lớp 1, cần phải yêu thương học sinh như con của mình, dạy giỗ với trách nhiệm là một người cha, người mẹ, người thầy. Thầy yêu thương trò bao nhiêu thì trò lại yêu thương thầy bấy nhiêu. Có như thế học sinh mới mạnh dạn bày tỏ, thổ lộ, mạnh dạn bày tỏ từ đó sẽ giúp các em mạnh dạn trong khi giao tiếp với mọi người. Tôi luôn tạo cho bầu không khí cho lớp học thoải mái, nhẹ nhàng, không đánh mắng hoặc dùng lời thiếu tôn trọng với các em, đừng để cho học sinh cảm thấy sợ giáo viên mà hãy làm cho học sinh thương yêu và tôn trọng mình. 3. Biện pháp 3: Rèn cho HS tính mạnh dạn, tự tin trước đông người Ngay đầu năm học, tôi đã cho các em tự giới thiệu về mình trước tập thể lớp. Bước đầu, các em còn rụt rè, nhút nhát, trả lời chưa thành câu. Từ đó, tôi đã động viên, khuyến khích các em trả lời lưu loát, mạch lạc hơn. - Em tên là gì? Em học lớp mấy ? - Em học trường nào? - Năm nay em bao nhiêu tuổi? - Cô chủ nhiệm lớp em tên là gì? - Em ở tổ dân phố nào? - Em thích học môn gì? - Bố mẹ em làm gì? - Thường ngày em làm những việc gì? - Mơ ước của em sau này sẽ làm gì? Cứ mỗi ngày một ít, các em dần tự tin và đến cuối năm học thì các em đã mạnh dạn hơn nhiều. Tôi hình thành cho các em tự hỏi và tự trả lời sau đó bạn hỏi mình trả lời, từ đó hình thành được các câu hỏi và câu trả lời đầy đủ nội dung, có chủ ngữ - vị ngữ. 4. Biện pháp 4: Rèn kỉ năng giao tiếp ứng xử trong nhà trường Quan hệ thầy- trò trong nhà trường không phải là quan hệ bề trên – kẻ dưới mà là thực hiện một sự phân công- hợp tác.
  3. Trong từng môn học, tiết học, giáo viên phải là người “làm mẫu” từ cách nói năng, thái độ, đi đứng, chữ viết...Vì nếu giáo viên có thái độ không tốt với học sinh, chúng sẽ học theo thầy đối xử không tốt với bạn bè và mọi người xung quanh. Lệnh giao việc của giáo viên phải đưa ra rõ ràng, cụ thể và thật sự “nghiêm”. Cần xây dựng mối quan hệ thân thiện –hợp tác giữa thầy –trò và giữa trò-trò để mọi học sinh đều được quan hệ trực tiếp với thầy và quan hệ với nhau. GV cần khuyến khích HS trao đổi, đặt câu hỏi, thảo luận, phát biểu ý kiến, thể hiện quan điểm cảm xúc riêng của mình. GV có thể chia lớp thành nhóm, lúc đầu có thể là nhóm nhỏ (2 học sinh ngồi cùng bàn) để dễ trao đổi, giúp các em tự tin dần; Sau đó triển khai giữa một em với một em khác ( vẫn là hai em nhưng thay đổi bạn trao đổi) sẽ giúp các em làm quen dần với sự hợp tác này. Dần dần khi các em đã có kinh nghiệm hơn, tự tin hơn có thể triển khai thành nhóm lớn hơn ( 4 đến 6 em ) và luân phiên nhau em nào cũng có thể làm nhóm trưởng- mọi thành viên trong nhóm đều được nói , các thành viên còn lại có nhiệm vụ đóng góp ý kiến, trao đổi, giúp đỡ bạn mình....GV phải là người thiết kế, định hướng, giúp đỡ, uốn nắn HS; tôn trọng HS, giúp HS tự tin bằng việc khuyến khích, động viên chứ không chê bai, chỉ trích...GV phải biết khẳng định việc làm của HS là “đúng” hay “chưa đúng” tuyệt đối không nói là “sai”. Để nâng cao năng lực tự tin, khả năng giao tiếp, hành vi ứng xử của HS, GV có thể yêu cầu mỗi tháng cử một bạn làm lớp trưởng luân phiên lần lượt điều hành các hoạt động thảo luận. Lúc đầu có thể là những em có năng lực, mạnh dạn, tự tin; sau là những em nhút nhát, chưa tự tin; những em còn có hành vi chưa thật sự văn minh, lịch sự; những em còn hạn chế về khả năng giao tiếp...để các em rút kinh nghiệm, điều chỉnh dần bản thân mình, nâng cao năng lực cá nhân...với sự góp ý, giúp đỡ của tập thể lớp và khả năng bản thân (vì mỗi HS chắc chắn đều có những mặt mạnh mặt tích cực riêng). GV phải là người làm “mẫu” hướng dẫn, điều chỉnh HS, vì vậy cần tổ chức các bài học thông qua mô phỏng, trao đổi, thảo luận, tranh luận, đóng vai, cuộc thi, trò chơi, vẽ tranh...để mỗi HS đều được thể hiện mình. 5. Biện pháp 5: Đổi mới phương pháp dạy học nhằm rèn kỹ năng giao tiếp cho học sinh Đổi mới phương pháp dạy học là dạy và học theo hướng tích cực chủ động, sáng tạo trong đó học sinh phải tự phát hiện, tự giải quyết vấn đề, tự chiếm lĩnh kiến thức mới theo sự tổ chức và hướng dẫn hợp lý của giáo viên trong môi trường giáo dục thích hợp nhằm thực hiện các mục tiêu giáo dục của bậc học, của môn học, của bài học. Một trong những nội dung của việc đổi mới phương pháp là đưa các hình thức dạy học mới vào trong từng bài học. Vì thế, để rèn kỹ năng giao tiếp cho các em, tùy từng bài học lựa chọn hình thức dạy học phù hợp. Với những bài dạy có hình thức Thảo luận nhóm: Thảo luận nhóm là hình thức dạy học rất có ích trong việc hình thành cho học sinh khả năng giao tiếp, hợp tác, thích ứng và độc lập suy nghĩ. Vì vậy, đối với các môn học mục tiêu là rèn kỹ năng giao tiếp cho học sinh tôi thường vận dụng hình thức này như đối với phân môn Đạo đức khi thực hành các yêu cầu như: trình bày bài làm miệng trước lớp; kể về gia đình em với người bạn mới quen; ... Tôi thường cho học sinh thảo luận nhóm đôi để thực hiện bài tập, sau đó các nhóm trình bày kết quả thảo luận của nhóm mình.
  4. Với những bài dạy có hình thức Trò chơi học tập: Trò chơi học tập là hình thức học tập có hiệu quả đối với học sinh, đặc biệt là những em ngại nói, tức là ngại giao tiếp, trò chơi học tập sẽ làm cho các em hứng thú hơn trong học tập. Thông qua trò chơi, học sinh được luyện tập, làm việc cá nhân, làm việc trong đơn vị nhóm, đơn vị lớp theo sự phân công và tinh thần hợp tác. Trò chơi tạo cơ hội cho học sinh tự hoạt động, tự củng cố kiến thức, tự hoàn thiện kỹ năng giao tiếp của chính mình. Các trò chơi học tập có thể tổ chức cho học sinh trong giờ tự học, giờ ra chơi hoặc giờ sinh hoạt lớp hay trong phần củng cố của mỗi giờ học. Qua các trò chơi này, học sinh được tăng cường rèn luyện các kiến thức vừa được học, từ đó sẽ nhớ bài và vận dụng vào việc giao tiếp trong đời sống hằng ngày. Luyện cho học sinh cách tự giới thiệu về gia đình mình với bạn bè hoặc người xung quanh. Chẳng hạn: Một học sinh giới thiệu về gia đình mình (quê quán, gia đình gồm có mấy người, nói về từng người trong gia đình, mọi người sống với nhau như thế nào...) Một học sinh khác làm phóng viên phải giới thiệu lại từng bạn với cả lớp. Nội dung giới thiệu phải chính xác, cách giới thiệu rõ ràng. Cho nhiều học sinh làm phóng viên, sau đó bình chọn phóng viên giỏi nhất. 6. Biện pháp 6: Luyện nói trong giao tiếp hằng ngày Ngày đầu tiên học sinh vào lớp 1, vấn đề là giao tiếp hằng ngày là vấn đề quan trọng. Do còn rụt rè nên giáo viên cần tạo cho học sinh một tâm thế hào hứng, không khí học tập nhẹ nhàng để bước vào giờ học ngay vào ngày đầu tiên các em đến trường. Cho nên giáo viên phải hướng cho học sinh tự tin khi giao tiếp hằng ngày qua các môn học, khi học sinh thưa với giáo viên hay giáo viên hỏi lại học sinh, giáo viên phải nhẹ nhàng, gần gũi với học sinh. Để tạo cho các em tự tin, mạnh dạn hơn khi trả lời với giáo viên một số học sinh đến lớp rất sợ giáo viên nên không dám thưa hỏi. HS vào lớp một đã được làm quen luyện nói như: Em chào cô, cô ơi em làm xong rồi, nhưng bên cạnh đó HS lớp 1 vẫn còn rụt rè vẫn chưa giám thưa, thì GV phải có tình cảm giao tiếp thân mật với các em. Ví dụ: GV hỏi “ Em đã làm xong bài tập chưa ?’’. Em có cần cô giúp đỡ gì không?....HS sẽ trả lời: xong rồi. khi đó GV phải sửa cho HS ngay, em phải nói là: thưa cô, “ em làm xong rồi ạ!’’. Hay khi học sinh trả lời câu hỏi của cô thì giáo viên khích lệ, khen bằng cách” Cô rất thích câu trả lời của con” “ Câu trả lời của con rất hay” Học sinh vừa thích, vừa hào hứng và tích cực hơn khi cô hỏi câu hỏi tiếp theo.Như vậy luyện nói cho học sinh phải được uốn nắn hằng ngày trong quá trình dạy học. Tổ chức cho học sinh tiếp xúc, làm quen với các anh chị Đội viên lớp trên qua buổi sinh hoạt Sao, tham dự và chứng kiến các cuộc thi của nhà trường để các em có cơ hội làm quen và bắt chước. Tổ chức đọc và nghe đọc truyện, đọc báo nhi đồng 15 phút đầu giờ, sinh hoạt lớp. Tổ chức các cuộc thi đọc tích cực, đọc phân vai, đọc hay đọc diễn cảm để giúp HS mạnh dạn trong khi đọc cũng như trong khi nói.
  5. 7. Biện pháp 7: Dạy kết hợp nghe và nói Dạy áp dụng vào các môn học có các hoạt động trò chơi: trong các môn học ngoại khóa, sinh hoạt lớp. Là dạy nghe, nói cùng một hoạt động như tổ chức trò chơi hỏi đáp thông qua môn học hoạt động ngoại khóa. Ví dụ: như chỉ vào một đồ vật và nói “ cái này màu gì ...? Học sinh trả lời màu sắc của đồ vật (có thẻ ) là màu ( đỏ ), sau đó học sinh thử nói bằng các cụm từ tương tự với bạn bè. Hoặc trò chơi thì thầm; học sinh ngồi thành vòng tròn. Giáo viên nói nhỏ 3 từ cho một bạn, sau đó, bạn đó lại thì thầm cho bạn gần nhất cho đến khi tất cả đều được nghe 3 từ đó. Học sinh được nghe cuối cùng phải nói to cả 3 từ đó lên. Hoạt động này giúp học sinh nói nhiều hơn. Tập nói bằng cách mô tả tranh: Học sinh sẽ mô tả những gì chúng thấy trong tranh: ví dụ như tranh con hổ, con chim qua môn học ngoại khóa. Luyện nói thông qua trò chơi tìm đồ vật: Ví dụ Giáo viên chuẩn bị một số đồ vật đựng trong một cái hộp. Một bạn nhìn thấy đồ vật thì mô tả bằng lời nói cho các bạn đoán ví dụ: Đồ vật trong nhà giúp mẹ nấu ăn hàng ngày là cái gì? Học sinh trả lời: Đó là cái nồi. Đồ vật bằng nhựa giúp các bạn gái chải tóc rất gọn gàng đó là cái gì? Học sinh trả lời: Đó là cái lược 8. Biện pháp 8: Dạy luyện nói kết hợp với các môn học khác Xây dựng cho HS cách phát biểu miệng tốt, trao đổi sôi nổi khi tham gia hoạt động nhóm thì phải tập luyện nói vào các môn học khác GV nên cho HS tập luyện nói. Thực tế luyện nói không chỉ diễn ra trong môn Tiếng Việt mà ở các môn học khác như Tự Nhiên Xã Hội, Đạo Đức, Thể Dục cũng là môi trường rất tốt để các em thực hành luyện nói. Ví dụ: Khi dạy bài “ Gia đình em’’ bài 4 môn Đạo Đức GV cho HS kể về gia đình mình cho các bạn nghe theo nhóm, sau đó nói trước lớp. *Đối với chủ đề luyện nói tôi sử dụng trò chơi như: Nặn đồ chơi: học sinh sẽ tham gia chơi nặn hình bằng đất hoặc chủ đề các con vật thì cho học sinh tập thể hiện bắt chước tiếng các con vật. Ở học kì I các em đã quen với việc luyện nói. Sang học kì II giáo viên sẽ nâng dần hình thức trong quá trình luyện nói qua phân môn luyện tập. * Rèn kỹ năng giao tiếp thông qua các môn học khác Mấy năm học gần đây, dưới sự chỉ đạo của phòng giáo dục nhà trường đã triển khai thực hiện dạy học môn “Giáo dục kỹ năng sống”. Hằng tuần, tôi đều thực hiện đầy đủ các tiết học, qua các bài học các em nắm được nội dung và áp dụng vào thực tế. Ví dụ: Bài “Hạnh phúc của em” tôi cho các em nêu hạnh phúc là như thế nào? để mỗi em tự mình biết được hạnh phúc rồi sau đó mới đưa ra định nghĩa về hạnh phúc. Qua đó các em hiểu hạnh phúc là yêu thương và chia sẻ cũng từ đó các em biết yêu thương mọi người trong gia đình cũng như trong lớp, trong trường học. Hay dạy bài “Lớp học vui” tôi đã tổ chức cho lớp một không khí vui nhộn bằng cách: Tổ chức cho lớp hát bài: “Lớp chúng mình rất vui” sau đó từng em học sinh lên lớp biểu diễn bài hát này cũng có thể bài hát khác. Tổ chức trò chơi: ‘Rồng rắn lên mây” trong bài học. Tạo nên một không khí vui nhộn cũng như rèn được sự mạnh dạn trước tập thể cho học sinh. Trước khi có phân môn này thì tôi đã áp dụng tiết
  6. “Giao tiếp Tiếng Việt” để giảng dạy mỗi tuần một tiết. Thông qua các tiết học các em tự giới thiệu trong nhóm, hỏi đáp hay lên trước lớp giới thiệu: về bản thân, về gia đình, làng xóm, đất nước hay nói theo chủ điểm trong phân môn Tiếng Việt. 9. Biện pháp 9: Giáo dục kĩ năng giao tiếp thông qua các hoạt động tập thể khác: Đối với học sinh tiểu học khi đến trường các em vừa được học tập và vui chơi, Hoạt động tập thể là một hoạt động cần thiết. Vì thế giáo viên cần chú ý rèn kĩ năng giao tiếp cho học sinh không chỉ trong học tập, trong sinh hoạt Đội mà còn phải chú ý rèn kĩ năng giao tiếp cho học sinh trong cả các hoạt động tập thể, bao gồm: Hoạt động ngoài giờ lên lớp, sinh hoạt lớp, sinh hoạt đầu giờ. Trong các hoạt động này học sinh là người thực hiện. Để rèn được kĩ năng giao tiếp, giáo viên phải cùng sinh hoạt với các em, giáo viên lắng nghe đồng thời hướng học sinh giao tiếp một cách lịch sự, không chỉ chích nhau trong tiết sinh hoạt mà chỉ khuyên các bạn cố gắng khắc phục những khuyết điểm, phát huy những ưu điểm để thực hiện một cách tốt hơn trong tuần tiếp theo. Đồng thời biết lắng nghe ý kiến của nhau, giao tiếp cởi mở, thân thiện “ Gọi bạn, xưng tôi”. - Hoạt động tập thể giúp các em giao tiếp và ứng xử tình huống giao tiếp một cách linh hoạt. Trong việc giảng dạy và giáo dục cho trẻ thì những hoạt động tập thể là không thể thiếu trong trường học, đây cũng là một trong số những cơ hội tốt để giáo viên có thể lồng ghép các phương pháp giáo dục kỹ năng giao tiếp cho các em. Hàng tháng, tôi tổ chức sơ kết đánh giá, nhận xét kết quả hoạt động trong tháng, do lớp trưởng điều khiển, nhằm giúp các em luyện nói để các em mạnh dạn nói năng gọn gàng trước tập thể. Phần nhận xét ưu điểm (nêu những bạn có tiến bộ), những hạn chế (không nêu tên cụ thể thành viên chưa tốt). Sau khi lớp trưởng nhận xét, các thành viên trong lớp có ý kiến. Sau cùng là phần nhận xét chung của giáo viên .Trong hoạt động này, tôi kiên trì và kịp thời uốn nắn, sửa sai cho các em để các em trình bày tốt. Nếu trình bày trước tập thể chưa thành công, tiếp tục giúp các em luyện nói, tập nói ngay tại chỗ khi nào hoàn thành mới dừng lại. Không nên phê bình các em khi trình bày còn lủng củng, chưa đủ ý, đủ câu tránh để các em mất tự tin, trở nên tự ty, mặc cảm. Riêng các thành viên dự sinh hoạt, khi muốn có ý kiến phải giơ tay theo đúng quy định đã được thực hiện trong lớp học và khi được mời có ý kiến thì mới trình bày ý kiến của mình. Khi các em phát biểu ý kiến, theo dõi và kịp thời uốn nắn, sửa sai về dùng từ, câu cho các em và tập cho các em có cử chỉ, thái độ lịch sự khi phát biểu như: đứng thẳng người, ngay ngắn, vui vẻ, mắt nhìn thẳng về trước Các thành viên khác lắng nghe, không được nói ngang hoặc nhận xét khi bạn trình bày và chưa được lớp trưởng mời có ý kiến. Hình ảnh học sinh thảo luận trong tiết hoạt động tập thể. Trong tiết hoạt động tập thể cuối tuần với thời gian khoảng 35-40 phút. Nội dung 1: Cho học sinh nhận xét đánh giá, tuyên dương những bạn có nhiều tiến bộ, nhắc nhở một số bạn chưa ngoan (nếu có) Nội dung :2
  7. Ví dụ tháng 11 :Tổ chức “kỉ niệm ngày 20-11” •Hình thức 1: Dưới sự chỉ đạo của chi đội trưởng. + Tìm hiểu kiến thức giữa các tổ + Phát biểu cảm tưởng về thầy (cô) + Tổ chức hoạt cảnh nhỏ về thầy (cô) + Văn nghệ xen kẽ •Hình thức 2: Có thể luân phiên người tổ chức. + Chào cờ ,hát quốc ca Hoạt động chính: + Văn nghệ tập thể + Thi đọc thơ kể chuyện về thầy cô. • Hình thức 3: Tình nghĩa thầy trò •Với hình thức thi “diễn kịch” có chủ đề về tình thầy trò giữa các tổ với nhau. Hình thức này kích thích óc tưởng tượng, tính sáng tạo cũng như kĩ năng thể hiện của học sinh. Số lượng HS tham gia đông, hầu hết các em thích được thể hiện mình nên sẽ tự giác, tích cực tham gia. Ví dụ: Chủ đề các tháng khác. - Tổ chức lồng ghép vào giờ sinh hoạt hoặc 15 phút đầu giờ. +Tổ chức trò chơi: đặt vật vào đúng vị trí -Thể lệ chơi: Mỗi cặp 2 bạn, một bạn bịt mắt, một bạn bị buộc hai tay. Hãy đặt cây bút theo đúng vị trí đã quy định với thời gian là 2phút. Bằng nhiều hình thức hoạt động như vậy, giúp các em củng cố kiến thức, phát triển tư duy sáng tạo vừa rèn được kĩ năng sống cho HS: kĩ năng làm việc theo nhóm, cách ứng xử trong giao tiếp và kĩ năng được thể hiện mình. Với tiết HĐTT tuy ngắn nhưng đã đem lại sự hứng thú cho HS , em nào cũng chờ đến giờ để được tham gia tiếp các hoạt động, không những thế mà các em đã sưu tầm được mẫu chuyện vui , trò chơi hay. Đặc biệt giáo dục cho HS hiểu : Muốn hình thành việc gì đều cần sự đoàn kết, hợp tác với nhau. Cần có sự khéo léo, tự tin, mạnh dạn thì mới có kết quả. 10. Biện pháp 10: “Rèn kỹ năng giao tiếp” qua sinh hoạt Câu lạc bộ: Đây là hoạt động trọng tâm của việc “Rèn kỹ năng giao tiếp”, vì qua hoạt động với các thành viên trong Câu lạc bộ, học sinh mới bộc lộ hết khả năng, tính cách trong giao tiếp của từng cá nhân.Trong quá trình sinh hoạt câu lạc bộ, giáo viên phải thường xuyên tham dự cùng học sinh để kịp thời giáo dục, nhắc nhở về những hành vi, ngôn ngữ, thái độ trong giao tiếp. Tùy theo từng Câu lạc bộ, tổ chức nội dung sinh hoạt phù hợp. Cụ thể: Câu lạc bộ Cờ vua, cầu lông cho học sinh thi đấu giao hữu với hình thức cá nhân. Câu lạc bộ vẽ tranh : Hoạt động cá nhân hoặc nhóm; Câu lạc bộ văn nghệ, kể chuyện: Hoạt động theo nhóm; Câu lạc bộ Tiếng Anh: Hoạt động cá nhân. Trong quá trình sinh hoạt câu lạc bộ, các học sinh thể hiện rõ tính cách trong giao tiếp ứng xử, vậy nên, giáo viên cần theo dõi sát, sẵn sàng yêu cầu dừng cuộc chơi nếu phát hiện tình huống xưng hô không hợp lý. Tôi thường nêu ra tình huống không tốt và không nêu trực tiếp tình huống xảy ra khi thi đấu tập luyện của ngày hôm đó; nhắc lại một vài chuyện ngắn đã học về
  8. tinh thần đoàn kết, tính kiên trì, nhẫn nại như: Câu chuyện bó đũa, chuyện “Có công mài sắt”, để học sinh nhận xét và đưa ra kết luận về cách ứng xử, hành vi và thái độ đúng. Lúc này, các em mạnh dạn nhận xét những hành vi ứng xử trên là chưa tốt, chưa hay và các em tự hứa nhắc nhở nhau để không có những hành vi, cách xưng hô chưa hay, chưa đúng như thế trong mọi tình huống. 11. Biện pháp 11: Kết hợp tuyên truyền với cộng đồng, với cha mẹ học sinh: Kết hợp với phụ huynh giáo dục học sinh giao tiếp ứng xử trong gia đình (ông bà, cha mẹ ,anh chị em, khách...) * Đối với người lớn tuổi trong gia đình: - HS ít nhiều chịu ảnh trực tiếp từ sự giao tiếp trong gia đình, chịu ảnh hưởng của truyền thống và văn hóa của gia đình. Hiện nay, không ít HS được sự cưng chiều thái quá của ông bà, cha mẹ đã trở nên ngang ngược. Vì thế GV cần phối hợp với phụ huynh, gia đình HS để tìm hiểu về hoàn cảnh sống, nắm bắt kịp thời đặc điểm tâm sinh lí của HS để giúp HS hiểu được: Giao tiếp trong gia đình là “kính trên- nhường dưới” HS cần : + Lễ phép, kính trọng ông bà, cha mẹ. + Vâng lời, giúp đỡ bố mẹ, nhường nhịn em nhỏ. + Biết ứng xử với mọi người trong gia đình, biết nói “cảm ơn”, “xin lỗi”,“ vâng ạ”,dạ, thưa...với cả những người thân thiết trong gia đình, biết dùng từ ngữ phù hợp, đúng mực, phù hợp với từng hoàn cảnh đồng thời phải biết lắng nghe , tôn trọng ý kiến của mọi người ngay cả khi bất đồng quan điểm, cả khi việc không theo ý mình. - Có thể mời Ban đại diện cha mẹ học sinh và các tổ chức đoàn thể trong, ngoài nhà trường tham dự khi nhà trường triển khai kế hoạch, mục tiêu việc thành lập Câu lạc bộ; tổ chức thực hiện các hoạt động nhân dịp hội thao, tổ chức hoạt động ngoại khóa; tổ chức sơ kết, tổng kết thông qua báo cáo kết quả kết hợp với thực trạng của nhà trường và những đề xuất cần thiết với Ban đại diện cha mẹ học sinh, với cộng đồng. 12. Biện pháp 12: Giúp học sinh phát triển các kĩ năng nói qua việc tổ chức các hoạt động tập thể vui tươi, lành mạnh trong nhà trường Phối hợp với nhà trường tổ chức các hoạt động văn nghệ, thể thao một cách thiết thực, khuyến khích sự tham gia chủ động, tự giác của học sinh. Tổ chức các trò chơi dân gian và các hoạt động vui chơi giải trí tích cực khác phù hợp với lứa tuổi của học sinh. Căn cứ vào nội dung trên, tôi đã xây dựng kế hoạch và thực hiện nhiều hoạt động một cách thiết thực, khuyến khích sự tham gia chủ động, tự giác của học sinh.Cụ thể như sau: Phát động học sinh tự tìm trò chơi dân gian; sưu tầm các bài hát, điệu múa thể loại dân ca cho học sinh phù hợp theo từng lứa tuổi. Duy trì việc sinh hoạt ngoài giờ lên lớp theo chủ điểm để học sinh được học, được chơi.
  9. Phối hợp với Tổng phụ trách Đội tổ chức các trò chơi ở giờ ra chơi: Ô ăn quan, nhảy giây, nhảy bì, kéo co . Đồng thời hàng tuần vào tiết chào cờ sáng thứ hai cho các em “Kể chuyện Bác Hồ”; Kể chuyện theo sách; Trò chơi Ai nhanh? Ai đúng? 13.Biện pháp 13: Tổ chức tốt các hoạt động ngoài giờ lên lớp Môn “Giáo dục ngoài giờ lên lớp” cũng góp phần khá lớn vào việc giao tiếp của học sinh. Có những bài học được thực hiện ngoài lớp học như bài: “Tham quan các di tích lịch sử ở địa phương”. Tôi tổ chức cho các em đi tham quan: Đài tưởng niệm liệt sĩ. Trước khi đi tôi giao nhiệm vụ cho các em và sau khi về báo cáo lại, sau tiết học các em đã học hỏi, trao đổi lẫn nhau và được trải nghiệm vào thực tế. Cũng có những bài học thường có các tình huống và xử lý tình huống, lớp tôi thuận lợi là học sinh hình thức tổ chức là học nhóm nên tôi chỉ giao cho nhóm trưởng tình huống là nhóm trưởng biết phân công nhiệm vụ cho các thành viên của mình diễn vai nào, nhân vật nào. Thông qua các tình huống, lời nhân vật giúp các em biết diễn đạt lời nói, ngôn ngữ của mình hơn. 14. Biện pháp 14: Cụ thể hóa nội dung của những kĩ năng cơ bản mà giáo viên cần dạy HS Kĩ năng sống tự tin: Một trong những kĩ năng đầu tiên mà giáo viên cần chú tâm là phát triển sự tự tin, lòng tự trọng của học sinh. Nghĩa là giúp học sinh cảm nhận được mình là ai, cả về cá nhân cũng như trong mối quan hệ với những người khác. Kĩ năng sống này giúp học sinh luôn cảm thấy tự tin trong mọi tình huống ở mọi nơi, mọi lúc. Kĩ năng sống hợp tác: Bằng các trò chơi, câu chuyện, bài hát giáo viên giúp học sinh học cách cùng làm việc với bạn, đây là một công việc không nhỏ đối với các em học sinh lứa tuổi này. Khả năng hợp tác sẽ giúp các em biết cảm thông và cùng làm việc với các bạn. Kĩ năng thích tò mò, ham học hỏi, khả năng thấu hiểu: Đây là một trong những kĩ năng quan trọng nhất cần có ở các em vào giai đoạn này là sự khát khao được học. Người giáo viên cần sử dụng nhiều tư liệu và ý tưởng khác nhau để khơi gợi tính tò mò tự nhiên của các em. Nhiều nghiên cứu cho thấy rằng, các câu chuyện hoặc các hoạt động và tư liệu mang tính chất khác lạ thường khơi gợi trí não nhiều hơn là những thứ có thể đoán trước được. Kĩ năng giao tiếp: Giáo viên cần dạy học sinh biết thể hiện bản thân và diễn đạt ý tưởng của mình cho người khác hiểu, học sinh cần cảm nhận được vị trí, kiến thức của mình trong thế giới xung quanh nó. Đây là một kĩ năng cơ bản và khá quan trọng đối với học sinh. Nó có vị trí chính yếu khi so với tất cả các kĩ năng khác như đọc, viết, làm toán và nghiên cứu khoa học. Nếu các em cảm thấy thoải mái khi nói về một ý tưởng hay chính kiến nào đó, các em sẽ trở nên dễ dàng học và sẽ sẵn sàng tiếp nhận những suy nghĩ mới. Đây chính là yếu tố cần thiết để giúp học sinh sẵn sàng học mọi thứ. 15. Biện pháp 15: Đánh giá sự tiến bộ của HS
  10. Việc đánh giá sự tiến bộ trong quá trình luyện nói của HS đặc biệt quan trọng. Nếu GV biết động viên, khuyến khích kịp thời sẽ giúp HS tạo được niềm tin để cố gắng phấn đấu. Khi đánh giá cần đảm bảo tính khách quan công bằng và tạo được hứng thú thi đua học tập của HS. Tùy vào từng đối tượng cụ thể trong lớp (đặc biệt HS yếu ) mà có các tiêu chuẩn đánh giá khác nhau. Trước một sự cố gắng của HS dù là nhỏ, tuyệt đối GV không được bỏ qua mà phải khích lệ để động viên HS ngày càng cố gắng hơn. Đối với HS yếu mức đánh giá thấp hơn so với các đối tượng HS khác, cần khuyến khích, động viên đặc biệt đối tượng này. Mỗi tuần giáo viên phát động phong trào thi đua như học tập tích cực, đọc to rõ ràng, trôi chảy, mạnh dạn tự tin giao tiếp tốt Tổng kết cuối tuần giáo viên khen sự cố gắng của học sinh bằng “thư khen hoặc bông hoa danh dự” 16. Biện pháp 16: Giữ mối quan hệ chặt chẽ với phụ huynh học sinh Trong các cuộc họp phụ huynh học sinh tôi luôn đề cao việc học tập và chuẩn bị bài ở nhà của học sinh, cùng với phụ huynh thường xuyên kiểm tra bài làm và cũng như sự chuẩn bị bài ở nhà của học sinh. Sự chuẩn bị bài của các em, đã làm cho các em tự tin hơn khi phát biểu bài trước lớp. Hơn ai hết, phụ huynh là người tiếp xúc nhiều nhất với các em khi ở nhà, người trực tiếp dạy dỗ, chỉ bảo các em từng lời ăn tiếng nói khi tiếp xúc với mọi người xung quanh, nhất là ở hàng xóm láng giềng, phụ huynh cần nhắc nhở các em nói năng lễ phép và mạnh dạn hơn. 17. Biện pháp 17: Liên kết với các lực lượng giáo dục trong và ngoài nhà trường * Các lực lượng trong nhà trường: Kết hợp với Đội TNTP HCM để tiến hành các hoạt động giáo dục toàn diện trên lớp. Kết hợp với các GV dạy môn chuyên như: Thể dục, Âm nhạc, Mĩ thuật... nhằm phát hiện những HS có năng khiếu để có hướng bồi dưỡng. những em kém thì kèm cặp thêm. Phối hợp với Ban giám hiệu nhà trường: Thường xuyên báo cáo tình hình học tập cũng như rèn luyện nề nếp của lớp để đề xuất xin ý kiến và biện pháp giáo dục tốt hơn. * Các lực lượng ngoài nhà trường: GV chủ nhiệm kết hợp với cha mẹ HS để có thông tin nhằm thống nhất quan điểm giáo dục HS bằng cách thông qua các buổi họp phụ huynh, qua điện thoại hằng ngày, qua việc thăm gia đình các em...để nắm bắt những thông tin từ phía phụ huynh để kịp thời nhắc nhở, giúp HS tiến bộ. III. HIỆU QUẢ. Để kiểm tra kỹ năng giao tiếp của học sinh, tôi tiến hành khảo sát vào giữa học kì II và thu được kết quả sau: Lớp 1A1 (Năm học 2023-2024) TT Lớp Sỉ số Đặc điểm học sinh
  11. 2. Nhóm học sinh 3. Nhóm học sinh 1. Nhóm học sinh có lời nói tương đối còn nhút nhát, nói có lời nói lưu loát lưu loát, trôi chảy. năng cộc lốc, ngại (Nhóm A) (Nhóm B) giao tiếp (Nhóm C) 1 1A1 34 23 67.7 % 9 26. 5% 2 5,8 % *Sau khi áp dụng các biện pháp trên tôi thấy: Về phía HS: Hầu hết HS đã mạnh dạn, tự tin, nói lưu loát. 100% HS trong lớp rất yêu thích các môn học. Phần lớn các em hào hứng, phấn khởi, thật sự gần gũi với GV. Về phía GV: GV thấy rèn KNS cho học sinh tuy rất khó nhưng với sự nỗ lực của mỗi thành viên nên cuối cùng cũng đạt được kết quả rất tốt. GV thực sự yêu nghề, mến trẻ và gần gũi yêu mến các em hơn. KẾT LUẬN 1. Kết quả của việc ứng dụng. Tôi đã mạnh dạn áp dụng lí luận dạy học đi đôi với thực hành. Đã đầu tư về thời gian cũng như năng lực của mình để giúp các em học sinh lớp 1rèn kĩ năng giao tiếp qua các môn học. Trên đây là những thành quả mà bản thân đã gặt hái được trong năm học. Kết quả còn hạn chế rất nhiều, nhưng dẫu sao đó cũng là những ấn tượng tốt đẹp của bản thân tôi đã truyền đạt cho các em những kiến thức và cách học mới... tuy đơn giản nhưng đáng tự hào. Đối với HS, tôi luôn là người mẫu mực, hết lòng vì các em, được các em tin yêu và kính trọng. 2.Trong qua trình triển khai SKKN: *Tính mới của SKKN Chương trình KNS góp phần nâng cao vai trò, vị trí của người dạy. Việc tổ chức dạy học không tính áp đặt, phát huy được tính tích cực, chủ động của các em, phát huy tối đa phương pháp dạy học lấy học sinh làm trung tâm. Tiến trình giờ dạy nhẹ nhàng, tự nhiên. 3. Kết luận Trên đây là một số giải pháp mà tôi đã sử dụng cho lớp mình và đã thu được kết quả rõ rệt: - Các em đã nói thành câu tự nhiên phù hợp với hoàn cảnh giao tiếp. - Các em biết cách luyện tập từ câu ngắn đến câu dài, từ dễ đến khó. - Giáo viện vận dụng, phối hợp luyện nói qua các môn, HĐTN, Tự Nhiên & Xã Hội. Như vậy, việc hình thành và bồi dưỡng kĩ năng nói cho HS lớp 1 là cả một quá trình lâu dài. Trên tinh thần đổi mới phương pháp dạy học theo hướng tích cực lấy học sinh làm trung tâm. Vì thế, người giáo viên phải nhớ rằng không thể có kết quả nói tốt ngay trong một sớm một chiều được mà phải có thời gian để các em sửa chữa và tiến bộ. 4. Bài học kinh nghiệm
  12. - Để đạt được kết quả như mong muốn, trước hết là sự tận tâm, nhiệt tình của giáo viên và sự cố gắng học tập rèn luyện của học sinh. - Người GV phải nắm bắt được đặc điểm tâm sinh lí của các em. Từ đó rút ra được các biện pháp dạy học và giáo dục cho phù hợp. - Phải làm tốt công tác phối hợp giữa gia đình và nhà trường trong việc chỉnh sửa, uốn nắn kĩ năng nói cho học sinh ở mọi nơi, mọi lúc. - GV phải cung cấp cho HS một hệ thống vốn từ thật chuẩn và chính xác. - Trong quá trình dạy ở tất cả các môn học, GV phải chú trọng đến việc phát triển cả 4 kĩ năng: nghe - nói - đọc - viết. - GV cần có sự nghiên cứu nội dung bài dạy, nắm vững mục tiêu từng tiết dạy từ đó vận dụng cho phù hợp đối tượng HS lớp mình phụ trách. Ngôn ngữ của GV phải rõ ràng trong sáng. - GV phải nhẹ nhàng, gần gũi, quan tâm giúp đỡ HS; phải khơi gợi, động viên, khuyến khích các em một cách tích cực. - Lấy học sinh làm trung tâm, tổ chức học sinh độc lập, sáng tạo, tự trình bày, nói trước đám đông. - Thường xuyên gặp gỡ, trao đổi với phụ huynh học sinh về tình hình học tập của con em mình, làm tốt công tác kết hợp giáo dục giữa gia đình - nhà trường. - Thường xuyên trao đổi với đồng nghiệp, tìm ra phương pháp dạy học tối ưu nhất, không ngừng cải tiến phương pháp dạy học nhẳm nâng cao chất lượng học tập của học sinh. - Phối hợp với tổ chuyên môn các khối lớp trên trong các buổi sinh hoạt chuyên môn, tổ chức chuyên đề nhằm đổi mới và thống nhất phương pháp dạy nhằm nâng cao chất lượng tiết dạy. Tuy nhiên điều quan trọng hơn cả vẫn là lòng yêu trẻ, sự kiên trì, nhẫn nại và ý thức trách nhiệm của một người thầy giáo, cô giáo trực tiếp gần gũi các em giúp các em có sự tiến bộ. Muốn đạt được mục đích này người giáo viên lập kế hoạch cho mình ngay từ đầu, quyết tâm giữ vững tinh thần tránh nhiệm của mình với học sinh. Ngoài ra cũng cần phối hợp với nhà trường, phụ huynh học sinh để có biện pháp hỗ trợ các em kịp thời và đúng lúc.