BPGD GVG cấp tỉnh - Truyền cảm hứng và đam mê toán học cho học sinh Lớp 4 thông qua tình huống có vấn đề - Trường Tiểu học Tiên Điền

pdf 10 trang Minh Anh 16/12/2025 50
Bạn đang xem tài liệu "BPGD GVG cấp tỉnh - Truyền cảm hứng và đam mê toán học cho học sinh Lớp 4 thông qua tình huống có vấn đề - Trường Tiểu học Tiên Điền", để tải tài liệu gốc về máy hãy click vào nút Download ở trên.

File đính kèm:

  • pdfbpgd_gvg_cap_tinh_truyen_cam_hung_va_dam_me_toan_hoc_cho_hoc.pdf

Nội dung tài liệu: BPGD GVG cấp tỉnh - Truyền cảm hứng và đam mê toán học cho học sinh Lớp 4 thông qua tình huống có vấn đề - Trường Tiểu học Tiên Điền

  1. BIỆN PHÁP GIÁO DỤC DỰ THI GIÁO VIÊN GIỎI TỈNH Năm học 2024-2025 TRUYỀN CẢM HỨNG VÀ ĐAM MÊ TOÁN HỌC CHO HỌC SINH LỚP 4 THÔNG QUA TÌNH HUỐNG CÓ VẤN ĐỀ I. Lý do hình thành biện pháp Trong giáo dục, mâu thuẫn giữa kiến thức, kỹ năng hiện có của học sinh và nhiệm vụ nhận thức mới chính là động lực thúc đẩy quá trình tư duy. Đứng trước những tình huống có vấn đề, học sinh buộc phải tư duy tích cực, độc lập và sáng tạo để tìm ra lời giải, từ đó phát triển kỹ năng giải quyết vấn đề và khắc sâu kiến thức. Toán học, vốn được coi là môn học khô khan, thường khiến học sinh e ngại. Tuy nhiên, thông qua các tình huống có vấn đề được thiết kế và khai thác phù hợp, học sinh không chỉ rèn luyện tư duy logic mà còn cảm nhận được sự thú vị, gần gũi và ứng dụng thực tế của toán học. Điều này đặc biệt quan trọng ở học sinh lớp 4 – giai đoạn cần xây dựng nền tảng tư duy và niềm yêu thích với môn toán. Kết quả khảo sát mức độ yêu thích và chất lượng học tập môn Toán đầu năm của lớp 4A2 thu được như sau: Dựa trên quá trình quan sát học sinh trong giai đoạn đầu năm học, tôi nhận thấy tỉ lệ học sinh yêu thích môn học này còn khá thấp. Đồng thời, khả năng thể hiện các năng lực toán học của học sinh vẫn còn nhiều hạn chế. Những yếu tố này được xác định là nguyên nhân chính dẫn đến kết quả khảo sát chất lượng môn Toán chưa cao. Từ những lí do trên, tôi luôn mong muốn tổ chức các giờ học sinh động và hiệu quả, nhằm khơi dậy sự sáng tạo cũng như niềm đam mê học tập ở học sinh. Để đạt được điều này, tôi không ngừng đổi mới phương pháp giảng dạy, đồng thời trăn trở để tìm ra những cách thức phù hợp để truyền cảm hứng và giúp học sinh yêu thích môn học hơn. Một trong số những biện pháp tâm đắc mà tôi đã nghiên cứu và áp dụng là: “Truyền cảm hứng và đam mê toán học cho học sinh lớp 4 thông qua tình huống có vấn đề”. Tôi đã áp dụng biện pháp này từ năm học 2023 - 2024 và bước đầu đã đạt được kết quả tích cực.
  2. 2 II. Nội dung biện pháp Truyền cảm hứng và đam mê là khả năng khơi dậy niềm yêu thích, động lực và sự nhiệt huyết trong người khác thông qua lời nói, hành động hoặc cách sống. Đó là việc chia sẻ những câu chuyện, ý tưởng hoặc tầm nhìn một cách chân thành, để người nghe không chỉ hiểu mà còn cảm thấy muốn hành động, khám phá và theo đuổi điều gì đó ý nghĩa. Truyền cảm hứng thường bắt đầu từ chính đam mê của người truyền đạt và lan tỏa tự nhiên đến những người xung quanh. Tình huống có vấn đề là tình huống khi học sinh tham gia thì gặp khó khăn, học sinh ý thức được vấn đề, mong muốn giải quyết vấn đề đó và cảm thấy với khả năng của mình hy vọng có thể giải quyết được, do đó bắt tay vào giải quyết vấn đề đó. Nghĩa là tình huống này kích thích hoạt động nhận thức tích cực của học sinh; đề xuất vấn đề và giải quyết vấn đề đã đề xuất. Và dưới đây là những cách làm của tôi đề truyền cảm hứng và đam mê toán học cho hs lớp 4 thông qua tình huống có vấn đề: 1. Truyền cảm hứng thông qua các câu chuyện và các bài toán đố vui Với niềm đam mê toán học từ khi còn nhỏ, tôi luôn mong muốn truyền lại tình yêu này cho học sinh của mình. Tôi tin rằng chỉ khi học sinh cảm nhận được sự hứng thú và đam mê, các em mới có động lực khám phá và tìm hiểu sâu hơn về môn học. Để thực hiện điều này, tôi đã thực hiện như sau: * Kể về các nhà toán học nổi tiếng và các phát minh của họ liên quan đến toán học bậc tiểu học cho học sinh nghe. Cách kể chuyện của tôi là thường dừng lại ở những điểm cao trào để học sinh dự đoán và tự tìm cách giải quyết vấn đề. Sau đó, đưa ra đáp án hoặc câu chuyện gốc để học sinh so sánh và học hỏi. Ví dụ: Tôi kể cho các em nghe câu chuyện “Cân voi” của một nhà Toán học tài ba dưới triều Hậu Lê, ông chính là Trạng Lường Lương Thế Vinh. Một lần sứ Thần nhà Minh dạo chơi cùng ông trên thuyền đã đố ông cân thử một con voi cùng với một chiếc cân nhỏ có giới hạn đo nhỏ hơn nhiều lần so với trọng lượng của nó. Các em có biết ông đã làm thế nào để cân được con voi đó không? - HS hào hứng đưa ra nhiều đáp án khác nhau, nhưng tất cả đều không đúng như
  3. 3 cách ông đã thực hiện. - Lúc này, tôi sẽ kể tiếp đoạn cuối câu chuyện: Ông nhận lời rồi sai người dắt voi xuống thuyền, đánh dấu mép nước bên mạn thuyền, sau đó dắt voi lên. Tiếp theo ông ra lệnh đổ đá xuống thuyền, đến khi thuyền chìm xuống đúng dấu cũ. Việc còn lại là đưa đá lên cân. Sứ thần nhà mình hết sức Thán phục. - Nghe xong câu chuyện, HS trầm trồ khen ngợi ông Trạng Lường: “Ông giỏi quá, siêu quá, ”. Tương tự, tôi cũng có thể kể cho các em nghe về nhiều nhà toán học khác khi có cơ hội hoặc có thời gian rỗi. Chẳng hạn, câu chuyện về nhà toán học Gauss với cách tính tổng dãy số một cách độc đáo. Cứ như vậy, tôi tranh thủ thời gian trong hoạt động Vận dụng bài học, sinh hoạt 15 phút theo chủ đề hay trong giờ sinh hoạt câu lạc bộ toán sau giờ học, để kể cho các em nghe. Những câu chuyện như thế đã giúp các em thấy: Toán học rất thú vị, có nhiều ứng dụng trong thực tế. Nhờ đam mê học toán, bằng sự kiên trì và nỗ lực mà các nhà Khoa học đã thành công và có những đóng góp to lớn cho xã hội. Qua đó, khơi gợi và nuôi dưỡng niềm đam mê khám phá và chinh phục môn học trong các em. * Sử dụng các bài toán đố vui để đố học sinh Cũng như cách kể chuyện toán học, tôi tranh thủ mọi lúc, mọi nơi, khi có cơ hội để đưa ra những câu đố vui toán học hấp dẫn, tạo không khí học tập vui vẻ và kích thích tư duy cho học sinh. Ví dụ 1: Có một gia đình nọ có ba người con trai. Mỗi người con trai đều có một người chị gái và một người em gái. Các bạn thử đoán xem, gia đình đó có mấy người con? (Vì gia đình đó có ba người con trai, mỗi người con trai đều có một người chị gái và một người em gái. Điều này có nghĩa là cả ba người con trai đều có chung một người chị gái và một người em gái. Vậy gia đình này có tất cả 5 người con.) Ví dụ 2: Đố bạn vẽ được các hình dưới đây chỉ bằng 1 nét?
  4. 4 Ví dụ 3: Con ốc sên leo lên đỉnh cột cao 10m. Ban ngày leo lên được 4m nhưng ban đêm lại tụt xuống 3m. Nếu bắt đầu vào sáng thứ hai, con ốc sên sẽ lên đỉnh vào ngày nào? Ví dụ 4: Ba bạn Hiền, Thi, Thoa mặc ba chiếc áo màu đỏ, vàng, xanh và cài ba cái nơ cũng màu đỏ, vàng, xanh. Biết rằng, Thoa cài nơ màu xanh, chỉ có Hiền có màu áo và màu nơ giống nhau, màu áo và màu nơ của Thi đều không phải màu đỏ. Hãy xác định xem ba bạn Hiền, Thi, Thoa mặc áo màu gì và cài nơ màu gì? Ví dụ 5: Muốn lên tầng 4 của một ngôi nhà cao tầng phải qua 72 bậc cầu thang. Hỏi muốn lên tầng 8 của ngôi nhà đó phải qua bao nhiêu bậc cầu thang? (Biết hai tầng gần nhau đều có số bậc thang như nhau và tầng 1 là tầng đầu tiên.) Đây vốn là các tình huống có vấn đề, HS rất hứng thú vào bài học nhằm mục đích truyền cảm hứng, khơi gợi niềm đam mê, rèn luyện tư duy và giúp học sinh cảm nhận toán học theo cách thú vị hơn. Những câu đố vui này dần trở thành thói quen đối với học sinh, giúp các em phân biệt rõ ràng giữa đố chữ, đố vui và bài toán thực tế, đồng thời nuôi dưỡng tình yêu dành cho môn Toán. Ban đầu, tôi là người chủ động đưa ra các câu đố, nhưng dần dần, điều này trở thành một nhu cầu không thể thiếu đối với học sinh. Các em không chỉ háo hức chờ đợi những câu đố từ cô mà còn tự sáng tạo, đố lẫn nhau, thậm chí chuẩn bị sẵn các câu đố toán học hay câu đố vui để thử thách ngược lại cô giáo. Với cách làm này HS rất hứng thú, tò mò, thích khám phá trước những thách thức, tình huống toán học. Đây là cơ hội tốt để tôi tiếp tục truyền đam mê cho các em thông qua giải pháp thứ 2. 2. Tiếp cận và khai thác sách giáo khoa một cách chủ động, linh hoạt cuốn các em vào các tình huống có vấn đề. * Cách tiếp cận tình huống có vấn đề ở hoạt động Khám phá: Chương trình GDPT 2018, sách giáo khoa thường gợi, đưa ra những tình huống có vấn đề Khám phá gợi ý ngay đầu mỗi bài học nhằm giúp GV tham khảo và có thể linh hoạt sử dụng để giúp HS chiếm lĩnh kiến thức mới. Nếu GV ít quan tâm, có thể dẫn đến không hiểu hết hiểu ý đồ của sách giáo khoa dẫn đến trong quá trình dạy học không phát huy được tối đa năng lực toán học cho học sinh, dẫn đến gần như học sinh tiếp thu kiến thức một cách thụ động. Với bản thân tôi, tôi đặc biệt quan tâm đến những tình huống khám phá, nghiên cứu kĩ và sử dụng một cách linh hoạt để phát triển tối đa năng lực toán học cho học sinh, giúp các em chiếm lĩnh kiến thức một cách tự nhiên, hiệu quả. Thay vì nêu câu hỏi, HS trả lời theo tình huống hoặc thường xuyên cho HS sử dụng sách giáo khoa thì tôi lại linh động, chủ động căn cứ vào nội dung bài học để có những cách tiếp cận khác nhau. Tôi thường tổ chức cho HS khám phá theo một trong hai cách sau đây: Cách 1: Với những tình huống mà học sinh đọc xong cũng khó để hiểu được vấn đề, các em cần tư duy mạnh và tương tác lẫn nhau mới có thể hiểu, trình bày được cách giải quyết đã được gợi ý ngay trong tình huống đó thì tôi thường sử dụng hình thức cho
  5. 5 HS được tự nghiên cứu tình huống sẵn có, sau đó cho HS chia sẻ nội dung tình huống để kiểm tra mức độ hiểu của các em, giúp các em chiếm kĩnh kiến thức. Ví dụ: Bài 40: Tính chất giao hoán và kết hợp của phép nhân (tiết 2) (Toán 4, sách Kết nối tri thức với cuộc sống, trang 11, tập 2) Cách 2: Đối với những bài mà đọc dữ liệu, tình huống học sinh có thể hiểu vấn đề, kiến thức lộ ra ngay và không có tác dụng kích thích tư duy của các em thì tôi lại thường chỉ sử dụng một phần dữ liệu của tình huống để tự nêu vấn đề chứa đựng mẫu thuẫn nhận thức, dành phần giải quyết vấn đề cho HS thông qua tổ chức cho các em thảo luận nhóm, tìm cách giải quyết sau đó chia sẻ trước lớp, điều này sẽ tăng tư duy, sáng tạo, tạo hứng thú, đam mê trong giải quyết vấn đề cho học sinh. Ví dụ: Bài 13: Làm tròn đến số hàng trăm nghìn (Toán 4, sách Kết nối tri thức với cuộc sống, trang 45, tập 1) Như vậy tôi luôn tiếp cận và sử dụng tình huống khám phá một linh hoạt và có chủ đích. Việc làm này tuy nhỏ đã tạo cho HS được nhiều cơ hội để phát triển năng lực toán học, tăng hứng thú, đam mê khám phá cho các em. * Cách khai thác tình huống có vấn đề trong hoạt động Luyện tập Thực tế trong SGK, bản thân nhiều bài toán đã là một tình huống có vấn đề, nếu chúng ta quan tâm nghiên cứu kĩ, khai thác triệt để thì sẽ tạo cơ hội cho HS được phát triển các năng lực toán học, đặc biệt là năng lực giải quyết vấn đề.
  6. 6 Ví dụ: Bài tập 4, Bài 19: Giây, thế kỉ (tiết 2) (Toán 4, sách Kết nối tri thức với cuộc sống, trang 68, tập 1) Đây là một bài toán có vấn đề, với mức độ nhận thức của HS lớp 4, hầu như đại đa số học sinh khi đọc xong yêu cầu thường vội vàng đưa ra giải pháp, dẫn đến kết quả sai là 3200 chuyến bay. Mấu chốt sai ở đây là do tính sai số năm hoạt động mỗi năm của máy bay. Điều này xảy ra do các em chủ yếu tập trung vào các mốc thời gian (năm 2001 và năm 2009) mà bỏ qua hoặc chưa chú ý kỹ đến các dữ kiện quan trọng đi kèm (bắt đầu từ 1/1/2001 và đến hết năm 2009). Nếu giáo viên không nghiên cứu kỹ đề bài, cũng có thể dẫn đến những nhầm lẫn không đáng có. Tôi sẽ khai thác tình huống này như sau: Tôi tung bài toán ra cho HS tự làm và nhấn mạnh rằng bài toán có điểm cần lưu ý, yêu cầu các em đọc thật kỹ đề bài. Dù vậy, đa số học sinh vẫn chủ quan, vội vàng giải và đưa ra kết quả thiếu chính xác là 3200 chuyến bay, điều mà tôi đã dự đoán trước, dù đã nhắc nhở. Cách xử lí của tôi: Tôi không vội khẳng định kết quả của học sinh là sai. Thay vào đó, tôi thay đổi một chi tiết nhỏ dữ kiệu trong bài toán để HS tự khám phá và phát hiện sai lầm. Cụ thể: dữ liệu "đến hết năm 2009" được thay thành "đến 1/1/2009" (ngầm hiểu là thời điểm cuối năm đã được thay bằng thời điểm đầu năm) và yêu cầu học sinh giải lại trong tình huống mới. Sau một lúc tính toán, các em vẫn đưa ra kết quả 3200 chuyến bay, giống như bài toán cũ. Ngay lập tức một số em khá bắt đầu băn khoăn, nhận ra có vấn đề và hiểu rằng kết quả giải bài toán lúc đầu đã bị sai.
  7. 7 Lúc này, tôi hỏi các em sai ở đâu? Và khuyến khích những học sinh này chia sẻ trước lớp. Sau đó, tôi sẽ vẽ trục thời gian để HS cả lớp nhìn rõ hơn. Việc này đã giúp các em giải lại bài gốc với kết quả đúng. Bằng cách này, thay vì giáo viên vội vàng chỉ ra lỗi sai, giải thích thì tôi đã dẫn dắt để học sinh tự khám phát hiện lỗi sai và tìm sửa để tìm ra câu trả lời chính xác. Cách làm này không chỉ giúp các em hiểu bài sâu hơn mà còn tạo sự hứng thú và chủ động trong học tập. 3. Gắn kết kiến thức với thực tế thông qua các tình huống có vấn đề. Mục tiêu cuối cùng của dạy học Toán là giúp học sinh phát triển năng lực Toán học, năng lực chung và phẩm chất chủ yếu, từ đó vận dụng Toán học linh hoạt vào thực tế. Vì vậy, tôi chú trọng gắn kết kiến thức với thực tế qua các tình huống có vấn đề. Ví dụ: Bài 20: Thực hành và trải nghiệm sử dụng một số đơn vị đo đại lượng (Toán 4, sách Kết nối tri thức với cuộc sống, trang 69, tập 1) GV xây dựng tình huống thực tế: Cô giáo chia lớp thành nhóm nhỏ, giao nhiệm vụ: "Mỗi nhóm có 200 000 đồng để tổ chức tiệc sinh nhật trong lớp. Các con hãy lập kế hoạch mua sắm gồm bánh, kẹo, nước uống, Các nhóm cần: - Tìm hiểu giá cả; Lập danh sách và tính toán sao cho tổng chi phí không vượt quá 200 000 đồng; Trình bày lý do lựa chọn các món sao cho bữa tiệc tiết kiệm và vui vẻ." Học sinh nhanh chóng tính toán chính xác, kiểm tra và sửa lỗi để đảm bảo chi phí không vượt ngân sách. Các nhóm đưa ra 2-3 phương án thực đơn, cân nhắc giá cả, dinh dưỡng và sở thích, thảo luận để chọn phương án tối ưu.
  8. 8 Qua hoạt động, học sinh phát huy sáng tạo, linh hoạt và kỹ năng làm việc nhóm, phân công rõ ràng và hỗ trợ lẫn nhau. Cuối hoạt động, các em tự đánh giá kết quả, rút kinh nghiệm, với sự hướng dẫn của giáo viên để phát triển năng lực giải quyết vấn đề. Ví dụ : Bài: Chia cho số có một chữ số (Toán 4, sách Kết nối tri thức với cuộc sống, trang 6, tập 2) a) Tình huống thực tế: Cô giáo muốn mua bột giặt OMO Comfort và đang phân vân giữa hai lựa chọn: Lựa chọn thứ nhất: Bao bột giặt 4 kg, giá 140 000 đồng. Lựa chọn thứ hai: Bao bột giặt 3 kg, giá 120 000 đồng. GV hỏi HS: "Các con có thể giúp cô quyết định nên mua bao nào để có lợi hơn không? Vì sao?" Tình huống có vấn đề là khi tôi biến một bài toán đơn giản thành tình huống cô cần học sinh giúp đỡ mình đưa ra sự lựa chọn có lợi hơn để tiết kiệm chi phí, từ đó tạo nhu cầu giải toán, khơi gợi hứng thú, thúc đẩy học sinh tìm giải pháp nhanh, đam mê và chủ động thực hiện để có thể giúp cô. b) Hướng dẫn giải quyết: - Tính giá mỗi kg của từng loại bột giặt. - So sánh giá trên mỗi kg: Bao 4 kg có giá 35 000 đồng/kg. Bao 3 kg có giá 40 000 đồng/kg. Học sinh sẽ nhận thấy rằng để tiết kiệm chi phí, cô nên mua bao 4 kg. III. Hiệu quả thực hiện của việc áp dụng biện pháp trong thực tế dạy học Trong năm học 2023–2024, tôi đã áp dụng biện pháp này tại lớp 4A2 và đạt được kết quả tích cực: HS lớp tôi rất đam mê học toán, nhiều em từ chỗ chưa thích thành thích, thích rồi càng thêm thích. Các em rất hứng thú với các tình huống có vấn đề. Việc xây dựng và khai thác các tình huống có vấn đề đã giúp học sinh lớp 4 phát triển toàn diện năng lực toán học. Các em không chỉ nắm vững kiến thức mà còn rèn luyện kỹ năng giải quyết vấn đề, tư duy logic và khả năng áp dụng toán học vào cuộc sống, từ
  9. 9 đó hình thành thái độ học tập tích cực và chủ động hơn. Hoạt động nhóm và tranh luận giúp học sinh phát triển kỹ năng giao tiếp, hợp tác và tư duy phản biện. Các em biết cách trình bày ý kiến, lắng nghe bạn bè và cùng nhau đưa ra giải pháp tối ưu, đồng thời hình thành tinh thần trách nhiệm, sự hợp tác và sáng tạo để ứng phó linh hoạt với các tình huống thực tế. HS tự tin và hứng thú trong học tập. Các em biết áp dụng kiến thức vào thực tế, yêu thích toán học hơn, và sẵn sàng khám phá môn học, góp phần nâng cao chất lượng dạy học và truyền cảm hứng và đam mê toán học lâu dài cho các em. Mức độ cảm hứng môn học và kết quả học tập đều tăng đáng kể sau khi áp dụng biện pháp: Trên đây là những con số biết nói và theo tôi còn có những giá trị không thể đo được chính xác bằng các số liệu cụ thể. Đó chính là nụ cười mỗi khi giải quyết được tình huống có vấn đề, sự háo hức của các em trước mỗi giờ học toán hay những lời khen từ phụ huynh về sự tiến bộ của các em. Các em luôn sẵn sàng khẳng định mình. Tôi cảm thấy hạnh phúc khi thấy năng lực toán học và các kỹ năng chung của học sinh phát triển không ngừng. IV. Kết luận của biện pháp * Khả năng ứng dụng và triển khai Khi giáo viên xây dựng và khai thác tốt các tình huống có vấn đề, mỗi tình huống trong quá trình dạy học trở thành cơ hội để phát triển năng lực cho học sinh. Vì vậy, biện pháp này có thể áp dụng hiệu quả trong dạy học môn Toán ở mọi khối lớp để phát triển toàn diện kỹ năng mềm và năng lực toán học của học sinh. * Kết luận Việc xây dựng và khai thác tình huống có vấn đề đã mang lại nhiều cơ hội để học sinh lớp 4 phát triển năng lực toán học một cách toàn diện. Phương pháp này không chỉ giúp các em nâng cao tư duy logic, kỹ năng phân tích, mà còn khơi dậy sự sáng tạo, hứng
  10. 10 thú, khởi gợi cảm hứng và thỏa sức đam mê toán học, tăng khả năng áp dụng kiến thức vào thực tế. “Người thầy bình thường chỉ biết nói, người thầy giỏi biết giải thích, người thầy xuất chúng biết minh họa, người thầy vĩ đại biết truyền cảm hứng”. Truyền cảm hứng, khơi gợi đam mê đóng vai trò rất quan trọng trong việc phát triển năng lực toán học cho học sinh. Trên đây là biện pháp mà tôi đã áp dụng trong giảng dạy. Mặc dù là những việc làm nhỏ nhưng đã truyền cảm hứng và đam mê toán học, giúp phát triển năng lực toán học cho học sinh. Tôi rất mong nhận được ý kiến đóng góp từ hội đồng khoa học các cấp để bản thân tiếp tục cải tiến và nâng cao hiệu quả dạy học. Tôi xin chân thành cảm ơn.